Thứ Ba, 14 tháng 7, 2015

Cả cuộc đời của con người, rốt cuộc là truy cầu điều gì?

(Ảnh: internet)
                                                                         (Ảnh: internet)

Một cô gái người Hoa nhiệt tình giới thiệu cho chàng trai người Anh đến Trung Quốc dạy học, chàng trai hỏi cô gái một câu, khiến cô gái có chút choáng váng!

 Tại một thị trấn nhỏ của nước Anh, có một chàng trai, kiếm sống bằng cách hát rong trên đường phố. Cũng ở khu đó, có một cô gái người Hoa, rời xa gia đình đến đó để làm thuê. Cả hai thường đến một nhà hàng nhỏ để ăn cơm, thế là sau nhiều lần gặp nhau họ đã trở nên thân thiết.

Một ngày, cô gái người Hoa nói với người thanh niên đó: “Đừng đi hát rong nữa, hãy làm một nghề nghiệp gì đó đi. Tôi giới thiệu cho anh đến Trung Quốc dạy học, ở đó, anh hoàn toàn có thể kiếm được nhiều tiền hơn công việc hiện tại”.

maxresdefault
                                                                        (Ảnh: internet)

Người thanh niên nghe xong, lúc đầu còn có chút bất ngờ, sau đó mới hỏi lại: “Chẳng lẽ công việc hiện tại của tôi không phải là một nghề nghiệp ư? Tôi thích nghề này, nó mang đến cho tôi và những người khác niềm vui, có gì là không tốt chứ? Tôi cần gì phải đi xa nghìn trùng, vứt bỏ người thân, vứt bỏ gia đình, đi làm công việc mà tôi cũng không thích?“

Ở bên nước Anh, bất kể là người già hay trẻ nhỏ, họ đều ngạc nhiên, họ không hiểu được tại sao chỉ vì để kiếm thêm được một chút tiền mà phải vứt bỏ người thân, từ bỏ hạnh phúc, có cái gì đáng giá vậy? Ở trong mắt họ, gia đình đoàn tụ, bình an yên ổn, đó mới là hạnh phúc nhất. Mọi người trong thị trấn nhỏ này đều cảm thấy rằng cô gái này quá là đáng thương.

Cả cuộc đời của con người, rốt cuộc là truy cầu điều gì?

Một thương nhân người Mỹ ngồi trên bến tàu của một làng chài nhỏ trên bờ biển Mexico, xem một ngư dân Mexico đang chèo chiếc thuyền nhỏ cập bến. Trên chiếc thuyền nhỏ có một vài chiếc đuôi cá Đại Hoàng và vây Cá Ngừ. Vị thương nhân người Mỹ này khen ngợi người ngư dân Mexico bắt được loại cá có giá trị cao như thế, và còn hỏi người ngư dân đã mất bao nhiêu lâu để bắt được số cá đó. Người ngư dân Mexico nói, chỉ một lát là bắt được từng đó rồi. Vị thương nhân người Mỹ lại hỏi, anh tại sao lại không nán lại lâu hơn một chút để bắt được thật nhiều cá hơn? Người ngư dân Mexico cảm thấy không cần làm như thế liền nói: “Số cá này là đã đủ cho người nhà tôi dùng rồi!”

Vị thương nhân người Mỹ hỏi: “Như thế thì thời gian trong ngày của anh còn rất nhiều, anh làm những việc gì?”

Người ngư dân Mexico giải thích: “Tôi à? Tôi mỗi ngày ngủ đến lúc hết buồn ngủ mới dậy, ra biển đánh bắt mấy con cá, sau đó trở về nhà chơi cùng các con, rồi ngủ trưa cùng vợ, lúc hoàng hôn đến, cùng với anh em uống chút rượu, chơi đàn ghi ta. Cuộc sống của tôi trôi qua vô cùng tốt đẹp.”

(Ảnh: internet)
                                                                        (Ảnh: internet)

Thương nhân người Mỹ cho rằng như thế là không tốt liền nghĩ kế giúp người ngư dân, anh ta nói: “Tôi là thạc sĩ quản trị kinh doanh của trường Đại học Harvard tôi có thể giúp anh bận rộn hơn, mỗi ngày anh hãy dành nhiều thời gian đi bắt cá hơn, đến khi đó anh sẽ có tiền để mua một chiếc thuyền to hơn một chút, đương nhiên anh sẽ bắt được nhiều cá hơn nữa, anh lại mua được một chiếc thuyền to hơn nữa, sau đó anh có thể có được cả một đoàn thuyền đánh cá”

Đến lúc đó anh không cần phải mang cá đi bán cho người buôn cá, mà trực tiếp bán cho cơ sở chế biến cá, sau nữa anh có thể mở một nhà máy chế biến đồ hộp, như thế anh có thể kiểm soát toàn bộ quá trình sản xuất, gia công, tiêu thụ. Sau đó anh có thể từ bỏ làng chài nhỏ này, chuyển đến Mexico, lại chuyển đến Los Angeles, cuối cùng là đến New York, ở đó xí nghiệp kinh doanh của anh sẽ không ngừng phát triển mở rộng.

Người ngư dân Mexico hỏi: “Điều này phải mất bao nhiêu thời gian đây?”

Vị thương nhân người Mỹ trả lời: “15 đến 20 năm”

Người ngư dân Mexico hỏi: “Vậy còn sau đó thì sao?”

Vị thương nhân người Mỹ cười lớn và nói: “Sau đó thì anh có thể ở nhà làm hoàng đế! Thời cơ thích hợp đến, anh có thể đưa cổ phiếu ra thị trường, bán cổ phần của Công ty anh cho dân chúng, đến lúc đó anh sẽ giàu có đấy, anh có thể có vài tỷ, vài tỷ đô la tiền lợi nhuận.”

“Tiếp sau đó nữa thì sao?”

Vị người Mỹ nói: “Cho đến lúc đó anh có thể nghỉ hưu, anh có thể đến bờ biển của làng chài nhỏ mà sinh sống, mỗi ngày ngủ đến tỉnh ngủ mới dậy, ra bờ biển bắt vài con cá, chơi cùng các con, lại cùng vợ ngủ trưa, lúc hoàng hôn, lại cùng anh em trong thôn uống chút rượu và chơi đàn ghi- ta.”

Người ngư dân Mexico nghi ngại nói: “Tôi hiện tại chẳng đúng là đang như thế sao?”

Gia đình hòa thuận, cuộc sống yên bình, chẳng phải đã là một loại thành công và hạnh phúc sao?

Theo NTDTV

Mai Trà biên dịch

(Đại Kỷ Nguyên)

Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2015

Vài bệnh mãn tính của trí thức Việt

Ngày nay, các bác sỹ thường khuyên chúng ta phải kiểm tra sức khỏe định kỳ nếu không muốn bị đột tử ( tim mạch) hay mắc các bệnh nan y (như ung thư). Trong “thế giới phẳng”, Tom Friedman cũng khuyên các doanh nghiệp phải kiểm tra sức khỏe thường xuyên, nếu muốn tồn tại và phát triển. Không biết giới trí thức Việt có kiểm tra sức khỏe và khám bệnh thường xuyên không, và có thừa nhận bệnh tật của mình không?

Có lẽ việc này cần hơn là “định nghĩa lại trí thức”. Tại sao phải định nghĩa lại? Chẳng lẽ lâu nay chúng ta không biết trí thức là gì, là ai, và làm gì. Đã qua rồi cái thời ông Mao điên rồ và xảo quyệt nói bậy: “trí thức không giá trị bằng cục phân”, hay cái thời mấy ông Việt Minh ngây ngô và cuồng tín, bắt chước ông Mao: “Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Họ không hiểu vùi dập trí thức là đồng nghĩa với tự sát quốc gia.

Tuy đã qua rồi, nhưng hệ quả của nó vẫn còn, bởi căn nguyên là cực đoan và cuồng tín chưa chết, vẫn còn lẩn khuất trong chính chúng ta.Nếu chịu khó quan sátta có thể nhận diện một số căn bệnh mãn tính điển hình của giới trí thức và văn nghệ sĩ Việt. Họ là thành phần ưu tú của quốc gia, làm đầu tàu thúc đẩy tiến bộ xã hội, nên cần quan tâm và khám bệnh, cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen (mấy ông này uống và hút dữ lắm!). 

Những nhận xét dưới đây có thể đúng, có thể sai, có thể bổ sung, có thể tranh luận, nhưng là cần thiết. Đừng vội phủ định hay khẳng định ngay.

Hay định kiến và chia rẽ

Người ta hay nói (nửa đùa nửa thật) rằng một người Việt thì không thua kém một người nước khác, nhưng ba người Việt thì chắc thua kém một người nước khácBởi vì ba người Việt thường không hợp sức mà chia rẽ, tự phân hóa và vô hiệu hóa nhauKhông hiểu vì sao tínhcá thể của người Việt rất cao, nhưng tính cộng đồng rất thấp. Đây là một nghịch lý mang bản sắc Việt Nam (không giống người Trung Hoa). Cũng chưa thấy tài liệu nghiên cứu nào phân tích xem đây là do tính bản địa, hay là do ảnh hưởng của văn hóa Pháp (xin lỗi mấy ông tây nhé!) Chỉ biết rằng người Việt có tiếng là hay định kiến và chia rẽhay cãi nhau không ai chịu ai. Càng trí thức, càng hay cố chấp và chia rẽ khỏe. Chưa thể lý giải ngay được, nhưng có thể do cực đoan và bảo thủ. Làm việc nhóm rất khó, không phát huy được nội lực vàkhông kết nối được năng lượng (synergy). Rất khó đồng thuận để có tiếng nói chung. Có lẽ vì biết như vậy nên cụ Hồ mới nhấn mạnh đoàn kết “như con ngươi của mắt mình”, nghĩa là không đoàn kết thì mù luôn. Hy vọng Việt Nam không phải là một “thung lũng mù”!

Gần đây, đáng mừng là đã xuất hiện một số hội đoàn độc lập theo hướng dân chủ hóa và cởi mở hơn, như xã hội công dân. Nhưng đáng buồn là các hội đoàn mới này cũng khó phát triển nhanh và mạnh được. Không phải chỉ vì số lượng ít, nguồn lực thiếu thốn, bị chính quyền ngăn cản, mà bản thân nội bộ cố chấp và chia rẽ, rất khó đồng thuận để có tiếng nói chung. Nghe nói vừa mới hình thành đã cãi nhau rồi. Chưa cần bên ngoài phá, bên trong đã tự phân hóa rồiCó lẽ cũng vì vậy mà hòa hợp và hòa giải dân tọc mới khó thế. Khi nói đến dân trí, người ta thường hiểu theo nghĩa cộng đồng chứ không phải từng cá thể. Nếu cứ định kiến và chia rẽ như vậy thì làm sao có thể nâng cao dân trí, làm sao có thể “thoát Trung”?

Không chịu lắng nghe

Theo nguyên lý truyền thông, lắng nghe quan trọng hơn cả nói, để thu lượm và sàng lọc thông tin cần thiết. Phải bình tâm mới lắng ngheđược người khác, để hiểu được cả những điều người khác không nói ra. Điều này càng quan trọng trong thời đại bùng nổ truyền thông kỹ thuật sốMuốn lắng nghe phải khiêm tốn, chân thành, nhạy cảmNgười ta nói xã hội càng “high-tech” thì con người càng phải “high-touch”. Ta thường làm ngược lại. Gần đây, Việt Nam được xếp vào nhóm nước vô cảm nhất thế giới (trong khi chưa “high-tech”). Đa sốngười Việt, nhất là giới trí thức, chỉ thích nói cho người khác nghe, mà không chịu lắng nghe người khác nói. Một số người còn hay “xoa đầu” và dạy bảo người khác (nhất là đối với lớp trẻ)Họ thường vô cảm, không hiểu được người khác muốn gì, nghĩ gì. Thế hệ già không hiểu thế hệ trẻ. Bắc - Nam, trong - ngoài, không hiểu được nhau. Thói quen không chịu lắng nghe có thể do thái độ ngạo mạn, coi thường người khác, luôn cho mình là đúng, ai không giống mình là sai.

Trong bộ máy công quyền trước đây, người ta quen độc quyền thông tin theo cấp bậc. Có một thời, chỉ có lãnh đạo mới được đọc “bản tin tham khảo” (lấy từ các hãng thông tấn nước ngoài). Thời ấy đã qua rồi, nhưng hệ quả của nó vẫn còn, vì hệ tư tưởng cũ chưa thay đổi. Một khi trong đầu đã chứa định kiến gì, thì người ta hay cố chấp, luôn phủ định hoặc khẳng định, mà không cần lắng nghe để tìm hiểu sự thật. Không chịu lắng nghe và chia sẻ thông tin thường dẫn đến định kiến và chia rẽ. Điều đáng nói là không phải chỉ có những người cộng sản (cuồng tín) mà cả những người chống cộng (cực đoan) đều mắc phải căn bệnh mãn tính này. Trí thức mà định kiến và cực đoan thì còn nguy hiểm hơn cả người khác.  
  
Học giả nhiều hơn học thật

Chưa thấy ở đâu người ta coi trọng bằng cấp và học hàm học vị một cách cực đoan như ở Việt Nam. Giới thiệu ông trí thức nào mà thiếu cái tít “GSTS” là toi. Trong khi đó dân chúng gọi GSTS là “gà sống thiến sót” (xin lỗi không phải tôi nói!). Vì vậy, nhu cầu “học giả” và làm “bằng giả” trở thành một thị trường ngầm phát đạt, như một khối u mãn tính, làm mấy đời bộ trưởng giáo dục đành chào thua. Điều đáng nói là nó không chỉ phổ biến trong nhà trường mà còn trong giới công chức và trí thức. Một quốc gia có trên 90 triệu dân (một nguồn tài nguyên quý mà chắc nhiều nước thèm muốn) nhưng chất lượng nguồn nhân lực đang khủng hoảng đến mức báo động. Chúng ta không lo giới trí thức Việt nhỏ bé, nhưng rất lo chất lượng dân trí còn thấp, bị phân hóa và vô hiệu hóa quá nhiều và quá lâu. Vì vậy, trí thức thật thì ít, trí thức giả thì nhiều. Giới trí thức Việt giống như một bức tranh “mosaic” nhiều màu sắc khó tảrất đặc thù chẳng giống ai, mang đậm “bản sắc” Việt Nam.

Nguồn gốc trí thức Việt đại khái có mấy thế hệ. Thế hệ những người “học tây thời trước (cả Bắc lẫn Nam) là trí thức thật, nhưng vừa quá ít vừa “quá date” (passé rồi), nếu chưa chết hoặc không nhanh chân ra nước ngoài thì cũng đã bị vô hiệu hóa bởi thời thế hoặc thời gian. Thế hệ thiếu sinh quân” (thời chống Pháp) được chọn đi học Trung Quốc/Liên Xô, đa số đã trở thành quan chứcmột số khác có tài đã trởthành trí thức thật, nhưng nay đã về hưu. Thế hệ “học Đông Âu” (thời chiến tranh với Mỹ), tuy đông nhưng bị phân hóa, đa số thực dụng buôn bán kinh doanh giàu lên nhanh như “tướng soái”, một số trở thành tư bản đỏ (đang lũng đoạn thị trường), nhưng vẫn giữ cái mũ phó tiến sĩ hoặc tiến sĩ dổm, một số khác có tài theo đuổi khoa học nghệ thuật, thường bị vô hiệu hóa, hoặc phải nhập quốc tịch nước khác. Thế hệ đi học các nước “phương tây” (sau chiến tranh) ngày càng đông và đa dạngđa số kinh doanhmột số làm công chức, một số khác làm cho nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài. Trí thức người Việt sống ở nước ngoài là một nguồn nhân lực quan trọng, có nhiều nhân tài, có lòng ái quốc, có thể đóng góp nhiều hơn cho đất nước và làm cầu nối với thế giới, nhưng chưa được thực sự trân trọng.    

Im lặng trùm chăn

Trong bối cảnh xã hội chuyển đổiđầy biến động và rủi ro, giới trí thức thường là đội ngũ tiên phong dẫn dắt xã hội đổi mới và phát triển.Nhưng đáng tiếc, giới trí thức văn nghệ sĩ Việt đã bị “thui chột” sau những kinh nghiệm đau buồn như “cải cách ruộng đất” và “nhân văn gia phẩm”, nên đa số thường “trùm chăn”, không dám lên tiếng, vì sợ. Đây là cái sợ titàng đã đi vào tiềm thức ít nhất hai thế hệ, nên muốn thoát khỏi nó phải cam đảm để phản tỉnh. Đến nay, hệ thống kiểm soát và kiểm duyệt (văn hóa tư tưởng) về cơ bản vẫn chưa thay đổi, với hồ sơ nhân quyền đang là vấn nạn trong quan hệ với Mỹ và phương Tây (giống như vấn đề MIA trước đây). Trong bối cảnh đógiới trí thức văn nghệ sĩ “trùm chăn” là dễ hiểu. Quá trình phản tỉnh để thoát khỏi nỗi sợ không đơn giản, tùy thuộc vào hoàn cảnh mỗi người. Có những người đến cuối đời mới dám lên tiếng nói ra sự thật (như tác giả “Đèn Cù”).

Bên cạnh đa số im lặng trùm chăn (silent majority), có một thiểu số lớn tiếng (vocal minority). Những người đã định cư ở nước ngoài thường “dũng cảm” hơn và “lớn tiếng” hơn những người trong nước. Một số quá khích và nôn nóng muốn thay đổi ngay. Một số khác trong lòng còn nặng hận thù và cố chấp, chỉ thích chửi nhưng không đề ra được giải pháp. Ai cũng muốn thay đổi, nhưng nếu không có giải pháp khả thi, thì thành viển vông. Vì vậy, cần tránh cả khuynh hướng “trùm chăn” lẫn “quá khích”. Nếu bình tâm nhìn kỹ thì quá trình dân chủ hóa trên thế giới tuy đa dạng và phức tạp, nhưng có quy luật, cần thời gian. Qua kinh nghiệm nhiều nước đã chuyển đổi (trong 40 năm qua) người ta thấy cách tốt nhất là đấu tranh ôn hòa, thông qua “Bất tuân Dân sự”. Phong trào dân chủ gần đây tại Hong Kong là một ví dụ, khác nhiều so với thời Thiên An Môn. Trong thời đại toàn cầu hóa và truyền thông kỹ thuật số, muốn đấu tranh hiệu quả phải có dân trí cao,  ứng dụng công nghệ cao, dùng “sức mạnh mềm” đối phó với “sức mạnh cứng”, biết kết nối quốc tế để vận dụng sức mạnh toàn cầu (global synergy).     

Hội nhập quốc tế chậm

Trong thời đại toàn cầu hóa, giới trí thức đáng lẽ phải hội nhập quốc tế nhanh hơn những nhóm người khác, để dẫn dắt họ trong quá trình đổi mới và phát triểnĐáng tiếc, giới trí thức Viêt hội nhập quốc tế hơi chậm so với các nước khác đang chuyển đổi. Có nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, chính sách kiểm soát và kiểm duyệt chặt chẽ với các quy định lạc hậu, không khuyến khích và tạo điều kiện cho giao lưu, hội nhập quốc tế. Thứ hai, bị đóng cửa quá lâu nên giới trí thức bị “nội địa hóa” quá nhiều, một số mang tâm lý bài ngoại, không quen hội nhập. Thứ ba, hàng rào ngôn ngữ và văn hóa cũng làm cho việc giao lưu, hội nhập của trí thức với thế giới bên ngoài khó khăn. Tuy nhiên, thế hệ trí thức trẻ học tại các nước Phương Tây sau này ngày càng đông,  riêng học tại Mỹ đến nay là 16.500 người (sau 20 năm). Họ không bị hàng rào ngôn ngữ và văn hóa cản trở, giao lưu và hội nhập dễ dàng. Đây là một nguồn nhân lực và một lớp trí thức mới quan trọng, nhưng chưa được coi trọng đúng mức.

Trong thời đại toàn cầu hóa và truyền thông kỹ thuật số, liên kết và giao lưu quốc tế vô cùng quan trọng, giúp cho những người trí thức mở rộng tầm nhìn, không kỳ thị dân tộc, ngăn ngừa xu hướng dân tộc cực đoan và bạo lực giữa các quốc gia. Theo kinh nghiệm phát triển của nhiều nước, chỉ khi nào giới trí thức trưởng thành như một thế lực mạnh trong xã hội, và nhân tài được trọng dụng như tài sản quốc gia, thì đất nước đó mới thực sự phát triển. Nhưng trước hết, giới trí thức Việt cần chữa trị các bệnh mãn tính nói trên.      

Nguyễn Quang Dy