Trong những
năm qua, kinh tế Việt Nam tăng trưởng dựa trên thâm dụng vốn đầu tư, dựa trên
việc khai thác những nguồn lực sẵn có như tài nguyên, thiên nhiên,.. kêu gọi vốn
đầu tư nước ngoài và trong nước. Trong khi lợi thế lao động trẻ trình độ cao, dồi
dào,..lại không đóng góp tỷ lệ lớn vào tăng trưởng GDP. Tại Hội nghị lần thứ
ba, Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Khóa XI xác định là một trong những trọng tâm
quan trong trong phát triển kinh tế giai đoạn 2011-2015 là việc chuyển
đổi mô hình tăng trưởng kinh tế.
Mô hình tăng trưởng kinh tế nào phù hợp với
Việt Nam:
Mô hình tăng trưởng kinh tế cũ: chủ yếu
dựa vào vốn đầu để tăng trưởng GDP, tức muốn tăng trưởng cao phải đầu tư vốn
nhiều, tăng trưởng tín dụng mạnh, thu hút NDT nước ngoài đổ tiền vào Việt Nam
vì tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhưng tài nguyên thì có hạn, đến một thời
gian nào đó sẽ cạn kiệt nên khả năng thu hút vốn nước ngoài khó.
Nền kinh tế
còn nghèo, tỷ lệ tiết kiệm tiền thấp nên muốn bơm vốn từ bên trong không có.
Khủng hoảng
kinh tế thế giới đang xảy ra, khả năng thu hút FDI, kiều hối sẽ hạn chế.
Do đó, cấp
thiết cần phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011-2015.
Mô hình tăng trưởng kinh tế Solow, Kaldor và
Sung Sang Park phù hợp với Việt Nam: dựa vào tiến bộ khoa học kỹ thuật và
nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn năng lượng dầu khí Việt Nam dồi dào mà
chưa khai thác hết.
Để đạt được mục
tiêu tăng trưởng kinh tế cần phải có đủ 4 nhân tố: lao động, tài nguyên (dầu
khí, khoáng sản,…), vốn và công nghệ.
Hành động thực tế thể hiện quyết tâm của
Chính phủ sắp tới theo lộ trình 2011-2015
Năm 2013,
Chính phủ tăng cường ổn định kinh tế vĩ
mô, lạm phát thấp hơn, tăng trưởng
cao hơn năm 2012. Đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn tới tái cơ cấu nền
kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
GDP
tăng khoảng 5,5% và CPI tăng khoảng 8%.
GDP
năm 2014-2015 trung bình khoảng 6-6,5%/năm
Giải quyết nợ xấu theo lộ trình:
Theo Kháng
phân tích quy trình xử lý nợ xấu ở Việt Nam giống mô hình của Hàn Quốc như sau
(số liệu nợ xấu có thể chênh lệch so với thực tế):
Người viết sử
dụng số liệu ước tính cả về giá trị định giá, thanh lý, cũng như số liệu nợ xấu
hiện tại đề làm ví dụ về các bước xử lý nợ xấu sắp tới của NHNN như sau:
Nợ xấu hiện tại
(đến khoảng tháng 12.2012 – ước tính của người viết) khoảng 300k tỷ VND – 10% tổng
dự nợ cho vay.
Đưa về mức 3%
năm 2015 – tức nợ xấu lúc đó khoảng 90k tỷ - tỷ lệ an toàn.
Đánh giá nợ xấu:
doanh nghiệp NN chiếm tỷ lệ nhiều nhất 70% nợ xấu. Tổng dư nợ của 12 tập đoàn kinh
tế Nhà nước lên tới gần 220k tỷ đồng. Dư nợ lớn nhất thuộc về Tập đoàn Dầu khí
(PVN -72,3k tỷ đồng), Điện lực (EVN – 62,8k tỷ đồng), Than và Khoáng sản
(Viancomin – 19,6k tỷ đồng)
Thành lập công ty mua bán nợ vốn 100k tỷ.
Thuộc Bộ Tài
chính hoặc NH nhà nước
Huy động vốn
từ: phát hành trái phiếu, ngân sách, các định chế tài chính khác
Xây dựng tiêu
chí xác định giá trị mua vào và thanh lý giá nào hợp lý có lợi nhất.
Cách làm từng bước như sau: (chủ yếu giải
quyết nợ xấu của DNNN)
Sau khi thành
lập công ty mua – bán nợ xấu khoảng 1-3 tháng có thể tiến hành mua nợ xấu dần dần
theo lộ trình.
Định giá khoảng
nợ xấu để mua 100k tỷ (80k tỷ nợ xấu DNNN và 20k tỷ nợ xấu các DN còn lại).
Mua lại khoảng
nợ xấu của DNNN, sau đó tái cơ cấu hoặc cổ phần hóa những tập đoàn lớn khi thị
trường chứng khoán tăng trưởng về giá (dự báo năm 2014-2015)
Tái cơ cấu tập
đoàn dầu khí tập trung vào 5 lĩnh vực chính: tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu
khí; lọc – hóa dầu; công nghiệp khí; công nghiệp điện; dịch vụ dầu khí chất lượng
cao. Bên cạnh đó, PVN thoái vốn đầu tư ngoài ngành, đặc biệt các lĩnh vực chứng
khoán, bất động sản,… của tập đoàn và công ty con. Đảm bảo thoái vốn giá cao, kế
hoạch đến năm 2015 sẽ thoái vốn hết thông qua thị trường chứng khoán và bán cho
đối tác nước ngoài.
Giai đoạn cuối
năm 2013-2015, nền kinh tế hồi phục và phát triển trở lại, giá cổ phiếu doanh
nghiệp tăng, mở room cho NDT, công ty mua bán nợ quốc giá định giá các khoản nợ
đã mua và thanh lý cho NDT nước ngoài, đối tác muốn gắn bó lâu dài với doanh nghiệp.
Dự kiến năm
2015, thanh lý theo giá trị số sách các khoản nợ xấu 190k tỷ (150 tỷ nợ xấu
DNNN và 40k tỷ các doanh nghiệp còn lại). Sau khi thanh lý, công ty mua – bán nợ
có lời khoảng 90k tỷ và 70 tỷ các tổ chức tín dụng trích lập dự phòng rủi ro.
Do đó đưa nợ
xấu từ 300k tỷ (10% tổng dự nợ) năm 2012 về mức 90k tỷ (3% tổng dư nợ như Quốc hội đặt ra
tháng 10.2012) vào năm 2015.
Các giải pháp cần làm để kinh tế Việt Nam
phát triển bền vững sau năm 2015 trở về sau:
Mô hình tăng
trưởng kinh tế mới của Việt Nam: dựa vào tiến bộ khoa học kỹ thuật và nguồn lực
lao động chất lượng cao. Tập trung nguồn lực vào ngành năng lượng dầu khí,..
Năm 2012:
Đảng, Nhà nước
đã thực tốt việc chống tham nhũng, lừa đảo, hành vi sai trái trong lĩnh vực tài
chính.
Tái cấu trúc
một phần thị trường chứng khoán: giao dịch buổi chiều, chuyển thời gian thanh
toán cổ phiếu từ T4 về T3, hạn chế thủ tục pháp lý dễ dàng cho NDT nước ngoài,
xử lý hành vi thao túng giá, gian lận,…
Đánh giá và
phân loại nợ xấu, sáp nhập các NH yếu kém, tái cấu trúc các doanh nghiệp, xây dựng
kế hoạch thoái vốn tập đoàn ngoài ngành thông qua thị trường chứng khoán.
Bước đầu tạo
sự tin tưởng của thế giới về Việt Nam, kêu gọi tài trợ WB, IMF, Nhật Bản,…
Năm 2013:
Thành lập
công ty mua – bán nợ và tiến hành mua nợ xấu và tính toán phương án xử lý
Thị trường chứng
khoán: sẽ có thêm sản phẩm chứng quyền,…, nâng cao tiêu chuẩn doanh nghiệp niêm
yết, loại bỏ các DN không đủ tiêu chuẩn để cho chứng khoán có lượng hàng chất
lượng. Nâng room cho NDT nước ngoài vào quý 3.2013.
Thu hút dòng
tiền vào, doanh nghiệp làm ăn tốt, giá cổ phiếu sẽ lên cao giữa năm 2013
Thoái vốn bớt
các công ty con tập đoàn ngoài lĩnh vực để tập trung vào ngành chính
Khuyến khích
thanh niên làm việc với đam mê, tiếp cận khoa học kỹ thuật hiện đại, tạo điều
kiện để cho thanh niên có được sự giáo dục tốt nhất để phục vụ phát triển kinh
tế Việt Nam theo mô hình tăng trưởng kinh tế mới.
Quý 3.2013,
nhiều quỹ đầu tư nước ngoài sẽ thoái vốn vì đến hạn, có thể đóng quỹ hoặc chuyển
sang quỹ mở nếu thấy triển vọng kinh tế Việt Nam tăng tốt tương lai.
Năm 2014-2015:
Kinh tế dần dần
đi vào ổn định, GDP tăng trung bình 6,5-7%/ năm, kiểm soát lạm phát thấp dưới 2
con số.
Lượng vàng
trong dần rất nhiều, đây là nguồn lực lớn cho phát triển kinh tế sau này. Tạo
được sự tin tưởng của người dần vào nền kinh tế, họ sẽ gửi vàng vào NHNN, sau
đó NHNN đem lượng vàng làm tài sản đảm bảo để thu ngoại tề về, nếu làm tốt thì
năm 2014-2015, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam khoảng 1,5-2 tháng nhập khẩu – tạo
niềm tin cực tốt cho NDT nước ngoài.
Tạo niềm tin
cho NDT nước ngoài tham gia vào quá trình tái cấu trúc nền kinh tế.
Room NDT nước
ngoài nâng lên, nhiều tổ chức nước ngoài sẽ tham gia sâu hơn vào các vấn đề
kinh tế Việt Nam, sẽ sẳn sàng mua nợ xấu và tái cấu trúc lại, giúp doanh nghiệp,
ngân hàng Việt Nam phát triển theo kịp với thế giới.
Thị trường chứng khoán bước vào Uptrend
trung hạn (6 – 12 – 24 tháng)
Để phát triển
kinh tế Việt Nam, giải quyết nợ xấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế,
tái cấu trúc nền kinh tế, tạo niềm tin cho NDT nước ngoài và trong nước, điều
kiện cần và đủ là phải vực dậy thị trường
chứng khoán – tức thị trường chứng khoán phải bước vào đà tăng trung hạn,
vì chỉ có thị trường chứng khoán tăng trưởng tốt mới giải quyết tất cả các vấn
đề nêu trên.
Vì thị trường
chứng khoán tăng trưởng thì mới thu hút dòng tiền vào nhằm mục đích thoái vốn của
các tập đoàn giá cao, thanh lý nợ xấu giá cao, cổ phần hóa Vietnamairline,
Mobifone, BIDV,… giá cao, tạo niềm tin trong dân.
Dương Văn Kháng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét