Tiếp theo phần 1, chi tiết tại:
http://duongvankhang.blogspot.com/2014/08/gia-gold-se-giam-ve-850-920-usdounce.html
3.
Kinh tế thế
giới và diễn biến giá vàng giai đoạn 1944 – 1973:
Kỷ
nguyên Bretton Woods:
Hệ thống tiền tệ quốc tế giai đoạn này
được neo với vàng thông qua việc đồng USD Mỹ được tự do chuyển đổi qua vàng bởi
các đối tác thương mại với giá 35 USD/ounce. Việc cho một số quốc gia cụ thể
vay ngắn hạn trong trường hợp bị thâm hụt thương mại sẽ được giải quyết bởi Quỹ
tiền tệ Quốc tế (IMF). Các quốc gia chỉ có thể phá giá đồng tiền của mình nếu
được IMF cho phép và điều đó thường chỉ được diễn ra trong trường hợp thâm hụt
thương mại dai dẳng cộng với lạm phát cao. Cấu trúc của hệ thống Bretton Woods
hầu như chỉ do một mình nước Mỹ đề ra.
Năm 1967, việc đóng cửa kênh đào Suez
trong cuộc chiến 6 ngày giữa các nước Ả Rập và Israel; sự kỳ vọng rằng Anh có
thể được yêu cầu phá giá đồng tiền để gia nhập Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC)
và lạm phát tăng cao tại Anh cũng như tại Hoa Kỳ. Sau một nổ lực không thành nhằm
chống đỡ áp lực bán đồng Bảng Anh đang xảy ra, đồng Bảng Anh chính thức bị phá
giá so với đồng USD Mỹ vào ngày 18/11/1967, từ 2,8 USD còn 2,4 USD một Bảng
Anh, tức phá giá 14,3%
Nước Anh có thể phá giá thì các nước
khác cũng có thể, các quan chức Hoa Kỳ sợ rằng đồng USD sẽ là đồng tiền tiếp
theo chịu áp lực phải phá giá. Nỗi sợ hãi của họ nhanh chóng trơ thành hiện thực
khi thâm hụt thương mại và lạm phát tăng
Theo hệ thống Bretton Woods, giá trị
của USD không gắn với giá trị đồng tiền khác mà gắn với giá trị vàng. Vì vậy việc
phá giá USD đồng nghĩa với việc tái định giá vàng theo giá USD với chiều hướng
đi lên.
Năm 1961, Mỹ và những cường quốc kinh
tế hàng đầu khác đã điều hành London Gold Pool (Kho dự trữ vàng London) về bản
chất là một nghiệp vụ thị trường mở nhằm định giá vàng. Trong đó các bên tham
gia kết hợp các nguồn dự trữ vàng và USD của mình để duy trì giá vàng thị trường
theo mức quy định tại Bretton Woods là 35 USD/ounce. London Gold Pool gồm Hoa Kỳ,
Anh, Đức, Pháp, Ý, Bỉ, Hà Lan và Thụy Sỉ, trong đó Hoa Kỳ đóng tới 50% nguồn dự
trữ vàng. Năm 1960, có một cuộc hỗn loạn mua vàng vào năm 1960 đã kéo giá vàng
trên thị trường lên đến 40 USD/ounce. London Gold Pool vừa là bên mua vừa là
bên bán: họ sẽ mua ở mức giá 35 USD/ounce và bán ra giá 40 USD/ounce.
Hồi cuối của Bretton Woods:
Sự công kích của công chúng đối với
việc một đồng USD thống trị neo với vàng của hệ thống Bretton Woods đã bắt đầu
thậm chí trước cả sự kiện phá giá đồng Bảng Anh vào năm 1967.
Tháng 1/1965, Tổng thống Pháp Charles
de Gaulle đã kêu gọi sự trở lại của hệ thống Bản vị vàng cổ điển và quyết định
chuyển đổi 150 triệu USD Mỹ dự trữ thành vàng và tuyên bố kế hoạch chuyển đổi
tiếp 150 triệu USD nữa trong thời gian sớm nhất. Tây Ban Nha cũng chuyển đổi 60
triệu USD tiền dự trữ của họ thành vàng. Nếu không dùng giá vàng 35 USD/ounce
mà tính theo giá vàng vào thời điểm tháng 6/2011, động thái hoán đổi này đáng
giá vào khoảng 12,8 tỷ USD đối với Pháp và 2,6 tỷ USD đối với Tây Ban Nha. De
Daulle đã gửi hải quân Pháp đến Hoa Kỳ để chở vàng về Pháp
Tháng 6/1967, Pháp đã rút khỏi London
Gold Pool, các yêu cầu đổi lấy vàng từ những người đang giữ USD trở thành một
cơn bệnh dịch. Tháng 3/1968, lượng vàng chảy ra khỏi kho dự trữ London Gold
Pool đã đạt đến mức 30 tấn một giờ
Tháng 3/1968, Quốc hội Hoa Kỳ đã hủy
bỏ yêu cầu dự trữ vàng để đảm bảo cho đồng USD; điều này đã giải phóng nguồn
cung vàng của Hoa Kỳ để có thê sẳn sàng đem bán với giá 35 USD/ounce khi cần. Đến
cuối tháng 3/1968, London Gold Pool sụp đổ. Sau đó người ta tính tới việc chuyển
vàng vào một cơ chế hai lớp: mức giá thị trường được quyết định tại London và mức
giá thanh toán quốc tế theo hệ thống Bretton Woods – 35 USD/ounce.
Ngày 29/11/1968, tờ báo Time đã tường thuật rằng một trong số những
vấn đề của hệ thống tiền tệ là “doanh số thương mại thế giới đang tăng nhanh gấp
nhiều lần so với nguồn cung vàng toàn cầu” – ám chỉ việc giá vàng thấp một cách
giả tạo ở mức 35 USD/ounce. Nếu giá vàng ở mức quá thấp, vấn đề không nằm ở chỗ
thiếu vàng mà là sự dư thừa của tiền giấy trong mối tương quan với vàng. Số tiền
dư thừa này phản ánh bằng sự lạm phát đang tăng lên tại Hoa Kỳ, Anh và Pháp vì
các nước này in tiền nhiều. Điều này cho thấy cung tiền giấy đã trở nên mất cân
bằng như thế nào so với vàng; cũng như sự tuyệt vọng khi Mỹ và các nước khác cố
níu kéo giữ giá vàng ở mức 35 USD/ounce ngay cả sau khi mức giá đó đã trở nên bất
khả thi
Chủ nhật 15/8/1971, Tổng thống Richard
Nixon đã thông báo Chính sách kinh tế mới (New Economic Policy) trong đó có việc
đóng cửa sổ vàng. Từ nay trở đi, USD sẽ không còn được đổi thành vàng theo yêu
cầu của các ngân hàng trung ương nước ngoài. Bản chất của chính sách này là phá
giá đồng USD so với vàng. Thực sự Nixon phá giá đồng USD ngay lập tức so với tất
cả các đồng tiền chính, sau đó sẽ thả nổi để đồng USD có thể đắm chìm trong những
cuộc phá giá tiếp theo trên các thị trường ngoại hối
Việc đổi USD lấy vàng của Pháp đã biến
quốc gia này trở thành một cường quốc về vàng chỉ xếp sau Mỹ và Đức, điều này
duy trì cho đến ngày hôm nay
Giá vàng tăng sẽ tương đương với USD bị
giảm giá cũng như các đồng tiền khác tăng giá. Đức và Pháp cũng sẽ hưởng lợi vì
họ đang tích trữ một lượng vàng khổng lồ
Đồng Bảng Anh bị phá giá lần nữa và rớt
16% vào cuối năm 1972. Ngày 3/7/1972 cả Franc Thụy Sĩ và đô la Canada đều được
thả nổi. Việc phá giá đồng Bảng Anh cuối cùng dẫn tới việc thất bại thảm hại của
đồng USD.
Cho đến thời điểm này, tất cả những cách
thức như biên độ tỷ giá, thả nổi,…và những công cụ khác được sáng chế nhằm duy
trì bề mặt của hệ thống Bretton Woods đều đã thất bại, các đồng tiền chính rơi
vào một hệ thống tỷ giá thả nổi.
Năm 1973, IMF tuyên bố khải tử hệ thống
Bretton Woods, chính thức kết thúc vai trò của vàng trong tài chính quốc tế và
để cho giá trị các đồng tiền biến động so với nhau ở bất kỳ mức nào mà các
chính phủ hoặc thị trường mong muốn
Thời đại của tỷ giá hối đoái thả nổi bắt
đầu từ năm 1973 kết hợp với sự chấm dứt mối liên hệ giữa đồng USD và vàng. Giờ
đây, thị trường đưa giá đồng tiền lên hoặc xuống mỗi ngày khi họ thấy hợp lý.
Các chính phủ cũng can thiệp vào thị trường bất cứ lúc nào nhằm cân đối những
gì họ cho là vượt mức hoặc hỗn loạn.
Sự
trở lại của hoàng đế USD
Nước Mỹ phải chịu đựng ba cuộc suy thoái
kinh tế từ năm 1973 đến 1981, tổng cộng sức mua của đồng USD giảm đến 50%. Đồng
USD giảm mạnh tương đương với việc giá vàng tăng mạnh.
Giá vàng nhảy từ 40,8 USD/ounce năm 1971
lên 612,56 USD/ounce năm 1980 trong đó cú tăng mạnh ngắn hạn lên mức 850
USD/ounce vào tháng 1/1980
Giai đoạn 1973 – 1981, nền kinh tế Mỹ
rơi vào lạm phát cao và tăng trưởng trì trệ. Khi niềm tin vào đồng USD gần như
tan vỡ, người ta trông chờ vào một chính quyền mới cùng với những chính sách mới.
Tháng 8/1979, Paul Volcker được chỉ định vào ghế chủ tịch FED
Đối với lạm phát, Volcker tăng lãi suất
FED lên mức đỉnh 20% vào tháng 6/1981 và biện pháp này có tác dụng. Lạm phát
hàng năm giảm mạnh từ 12,5% vào năm 1980 xuống còn 1,1% vào năm 1986. Lạm phát
giảm cũng làm vàng giảm theo, giá trung bình giảm từ giá 612,56 USD vào năm
1980 xuống còn 317,26 USD/ounce vào năm 1985. Giá trị đồng USD đã mạnh trở lại.
Một phần sức mạnh của đồng USD đầu những
năm 1980 bắt nguồn từ sự kiện các nhà đầu tư nước ngoài muốn có USD để đầu tư
vào Mỹ do sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của quốc gia này.
Các chính sách thắt chặt tiền tệ của
Volcker cùng với việc cắt giảm thuế của Tổng thống Reagan đã giúp GDP tăng trưởng
liên tục, đạt mức 16,6% trong vòng 3 nam từ 1983 – 1985.
Thâm hụt thương mại giữa Mỹ với Đức và
Nhật Bản đang tăng lên do đồng USD mạnh hơn đã khiến người Mỹ mua xe hơi Đức và
đồ điện tử Nhật Bản, cùng những hàng hóa khác nhập khẩu vào Mỹ.
Đầu năm 1985, việc các ngành công nghiệp
Hoa Kỳ cùng nhau tìm kiếm sự bảo hộ trước hàng nhập khẩu và việc người Mỹ tìm
kiếm việc làm đã dẫn đến việc Công đoàn các chính trị gia thuộc các bang công
nghiệp liên tục kêu gọi phá giá đồng USD để thúc đẩy xuất khẩu và giảm nhập khẩu
Hiệp ước Plaza vào tháng 9/1985 là kết
quả của những nổ lực đa phương nhằm hạ giá đồng USD và vạch ra một kế hoạch phá
giá đồng USD, chủ yếu so với đồng Yên Nhật và đồng Mark Đức. Từ năm 1985 –
1988, đồng USD giảm 40% so với đồng Franc Pháp, 50% so với Yên Nhật và 20% so với
Mark Đức
Hiệp ước Plaza là một thành công trong việc phá giá USD nhưng kết quả kinh tế
lại gây thất vọng: tỷ lệ thất nghiệp Mỹ vẫn ở mức cao, khoảng 7% năm 1986 ; GDP
chỉ tăng 3,2% năm 1987; lạm phát vọt lên 6,1% vào năm 1990
Dựa trên một nền kinh tế Hoa Kỳ phát triển
và chính sách tiền tệ ổn định của Hệ thống dự trữ Liên bang Mỹ, đồng USD cùng với
vàng trở thành nơi trú ẩn khi khủng hoảng xảy ra.
Các cuộc khủng hoảng Bảng Anh vào năm
1992, khủng hoảng Peso Mexico năm 1984 và khủng hoảng tài chính Á – Nga vào năm
1997-1998, không có cuộc khủng hoảng nào trong số này đe dọa đồng USD.
Khi khủng hoảng kinh tế nổ ra ở Hoa Kỳ
năm 2008 mới thực sự làm sụp đổ đồng USD
Kết
luận: khi đồng USD bị phá giá (giá
trị USD giảm so với các đồng tiền khác), kéo theo lạm phát sẽ tăng trở lại
trong tương lai, giá vàng sẽ tăng theo. Khi USD mạnh lên thì giá vàng sẽ giảm
xuống.
Còn tiếp.....
Dương Văn Kháng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét